Chính sách phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong các khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam
15:06 - 16/09/2025
ThS. Nguyễn Thị Trà Giang
Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
Mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) là một xu hướng phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh hạn chế tài nguyên. Trong đó phát triển khu công nghiệp sinh thái (KCNST) gắn với phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu được coi là một công cụ hiệu quả thúc đẩy phát triển KTTH của một quốc gia. Từ năm 2009 đến nay, Việt Nam đã có những bước khởi đầu quan trọng trong phát triển mô hình này thông qua các dự án hợp tác kỹ thuật quốc tế, đặc biệt dưới sự hỗ trợ của UNIDO. Tuy nhiên, quá trình phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong KCNST vẫn còn hạn chế cả về quy mô triển khai lẫn chiều sâu liên kết, do số lượng khu công nghiệp (KCN) tham gia còn rất ít và mức độ tuần hoàn của dòng vật liệu chưa cao. Về mặt chính sách, mặc dù Nhà nước đã ban hành các văn bản đầu tiên tích hợp kinh tế tuần hoàn vào luật pháp (Luật Bảo vệ Môi trường 2020, Nghị định 35/2022/NĐ-CP về KCN, Thông tư 05/2025/TT-BKHĐT về KCNST), khung chính sách cụ thể để thúc đẩy chuỗi cung ứng tuần hoàn trong KCNST vẫn chưa hoàn thiện, thiếu các cơ chế khuyến khích và điều phối đồng bộ.
Từ khóa: khu công nghiệp sinh thái, chuỗi cung ứng tuần hoàn, Việt Nam
1. Khái quát chung về phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong các khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam
1.1. Một số khái niệm liên quan
- Kinh tế tuần hoàn
Theo UNIDO (2023), KTTH hướng đến việc luân chuyển vật liệu - năng lượng trong chu trình sản xuất càng lâu càng tốt, đồng thời "đưa chất thải trở lại đầu chuỗi" để tạo giá trị mới. Nhìn chung, KTTH được coi như một mô hình thay thế cho mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống với chu trình “khai thác - sản xuất - tiêu dùng - thải bỏ” khi đặt mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả sử dụng tài nguyên, kéo dài vòng đời sản phẩm và tái tạo giá trị từ chất thải, nhằm đạt được tăng trưởng bền vững cả về kinh tế và môi trường.
- Chuỗi cung ứng tuần hoàn:
Chuỗi cung ứng tuần hoàn được định nghĩa là mô hình chuỗi cung ứng được thiết kế nhằm tối đa hóa việc tái sử dụng, tái chế và kéo dài vòng đời sản phẩm, giúp doanh nghiệp chuyển từ mô hình “sản xuất - tiêu dùng - thải bỏ” sang mô hình khép kín nơi sản phẩm và nguyên liệu được tái sử dụng liên tục (Như Hiệp, 2021). Như vậy, chuỗi cung ứng tuần hoàn nhấn mạnh vai trò của logistics ngược (thu hồi, tái chế sản phẩm sau tiêu dùng) song song với logistics thuận truyền thống, tạo thành vòng tuần hoàn hoàn chỉnh. Các thành phần chính của chuỗi cung ứng tuần hoàn bao gồm: thiết kế sản phẩm có thể tái chế, lựa chọn nguồn nguyên liệu tái tạo, tổ chức thu hồi sản phẩm đã qua sử dụng, tái sản xuất (remanufacturing) và tái chế phế liệu làm nguyên liệu đầu vào mới (Như Hiệp, 2021).
- Cộng sinh công nghiệp
Chertow (2000) đưa ra khái niệm cộng sinh công nghiệp là “quá trình trao đổi có hệ thống các dòng vật chất, năng lượng, nước và phụ phẩm giữa các doanh nghiệp riêng lẻ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm thiểu chất thải và gia tăng hiệu quả kinh tế - môi trường”.
Theo Chertow (2000), cộng sinh công nghiệp bao gồm ba đặc trưng chính: (i) trao đổi tài nguyên giữa các thực thể kinh tế độc lập; (ii) cộng tác mang tính tương hỗ giữa các doanh nghiệp để đạt lợi ích kép về kinh tế và môi trường và (iii) sự hiện diện của một mạng lưới dòng vật chất đa chiều và có cấu trúc.
UNEP và UNIDO (2017) mở rộng định nghĩa này bằng cách đưa ra khung kỹ thuật vận hành cộng sinh công nghiệp trong các KCNST. Theo đó, cộng sinh công nghiệp không chỉ dừng lại ở chia sẻ dòng phụ phẩm vật lý, mà còn bao gồm chia sẻ hạ tầng kỹ thuật (như xử lý nước thải, năng lượng dư thừa), dịch vụ chung (logistics, kho bãi) và thậm chí cả nguồn lực xã hội như nhân lực, trung tâm đào tạo và nghiên cứu. Hệ thống cộng sinh lý tưởng sẽ hình thành mạng lưới sản xuất khép kín, trong đó "chất thải của doanh nghiệp này trở thành tài nguyên của doanh nghiệp khác", một nguyên tắc cốt lõi của KTTH.
- Khu công nghiệp sinh thái, phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu CN sinh thái
Theo UNIDO (2017), “Khu công nghiệp sinh thái là một cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ cùng nằm trên một khu đất chung. Các doanh nghiệp thành viên tìm kiếm hiệu suất môi trường, kinh tế và xã hội được cải thiện thông qua sự hợp tác trong việc quản lý các vấn đề về môi trường và tài nguyên. Bằng cách làm việc cùng nhau, cộng đồng doanh nghiệp tìm kiếm lợi ích chung lớn hơn tổng lợi ích riêng lẻ mà mỗi công ty sẽ nhận được chỉ bằng cách tối ưu hóa hiệu suất riêng lẻ của mình”.
Khác với giai đoạn đầu của KCNST, vốn chỉ tập trung vào sử dụng tài nguyên hiệu quả hoặc chia sẻ hệ thống xử lý chất thải, KCNST gắn với KTTH tập trung nhấn mạnh vào việc phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu, là việc nâng cao tính tính tích hợp và khả năng tổ chức cộng sinh ở cấp độ cao nơi các dòng nguyên liệu, năng lượng, nước và phụ phẩm không chỉ được tái sử dụng đơn lẻ, mà được tối ưu hóa thông qua thiết kế chuỗi giá trị liên ngành, liên doanh nghiệp và liên hạ tầng, phản ánh đúng nguyên lý tuần hoàn "đưa chất thải trở lại đầu chuỗi" (UNIDO, 2023). Quá trình phát triển này còn thể hiện sự chuyển dịch từ cộng sinh vật lý sang cộng sinh giá trị, trong đó không chỉ dừng ở việc giảm phát thải mà còn tạo ra giá trị gia tăng từ phụ phẩm như biến bùn thải thành vật liệu xây dựng, CO₂ thành nguyên liệu sinh học, hoặc nhiệt dư thành năng lượng tái tạo.
Về bản chất, phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu công nghiệp sinh thái chính là phát tiển mức độ cộng sinh công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong khu. Trong một nền kinh tế, chuỗi giá trị tuần hoàn có thể được triển khai ở phạm vi liên ngành rộng lớn, kết nối nhiều lĩnh vực khác nhau (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) nhờ vào khung chính sách quốc gia, tiêu chuẩn kỹ thuật và các cơ chế thị trường như trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Ở cấp doanh nghiệp, chuỗi tuần hoàn thường giới hạn trong nội bộ tổ chức, tập trung vào đổi mới thiết kế sản phẩm, sử dụng nguyên liệu tái tạo và tổ chức logistics ngược để thu hồi, tái chế, chủ yếu nhằm tiết kiệm chi phí và gia tăng giá trị thương hiệu. Ngược lại, trong khu công nghiệp, chuỗi giá trị tuần hoàn có đặc trưng nổi bật là lợi thế địa lý gần nhau của các doanh nghiệp, cho phép hình thành cộng sinh công nghiệp trên thực tế: chất thải, năng lượng dư thừa hay phụ phẩm từ một nhà máy có thể nhanh chóng trở thành nguyên liệu cho nhà máy kế cận, đồng thời các doanh nghiệp dễ dàng chia sẻ hạ tầng chung như xử lý nước thải, cung cấp năng lượng, logistics hay trung tâm tái chế. Nhờ đó, chuỗi tuần hoàn trong KCN vừa tận dụng được tính tập trung không gian, vừa giảm đáng kể chi phí vận chuyển và điều phối so với quy mô quốc gia hay liên ngành phân tán, tạo nên một hệ sinh thái tuần hoàn khép kín ở cấp độ cụm sản xuất.
1.2. Nội dung chính sách phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu công nghiệp sinh thái
Về bản chất, mô hình KCNST đã có sự gắn kết với việc phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn, đo đó nội dung chính sách phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong KCNST bao gồm:
- Các chính sách phát triển, hình thành (về số lượng các KCNST): (1) Chiến lược quốc gia về phát triển KCNST, trong đó xác lập rõ mục tiêu về số lượng KCNST cần hình thành theo từng giai đoạn (5 năm, 10 năm), đồng thời xác định vị trí và vai trò của KCNST trong tổng thể quy hoạch phát triển công nghiệp quốc gia. (2) Chính sách ưu đãi tài chính, tín dụng như ưu đãi thuế, tài trợ lãi suất xanh, đầu tư hạ tầng dùng chung hoặc thành lập quỹ phát triển KCNST cấp quốc gia; (3) Khung pháp lý và bộ tiêu chí rõ ràng để xác định, công nhận và giám sát KCNST, đồng thời đưa ra lộ trình chuyển đổi bắt buộc hoặc định hướng tỷ lệ chuyển đổi từ các khu công nghiệp truyền thống sang sinh thái; (4) Chính sách phân cấp và giao chỉ tiêu phát triển KCNST cho địa phương là cần thiết nhằm gắn kết trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương; (5) Các chính sách thu hút đầu phát triển KCNST.
- Chính sách thúc đẩy và nâng cấp mức độ cộng sinh công nghiệp trong KCNST: (1) Các chính sách phân loại rõ các cấp độ cộng sinh đi kèm với tiêu chí đánh giá cụ thể và chính sách hỗ trợ tương ứng; (2) Các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng hình thành cộng sinh công nghiệp như miễn, giảm thuế môi trường hoặc khấu trừ thuế đầu tư xanh đối với các doanh nghiệp có hoạt động cộng sinh đạt hiệu quả; (3) Xây dựng, hỗ trợ các trung tâm kỹ thuật và nền tảng dữ liệu cộng sinh công nghiệp, kết nối thông tin trong khu công nghiệp, cung cấp công cụ phân tích, phát hiện cơ hội cộng sinh tiềm năng và tư vấn kỹ thuật triển khai cộng sinh liên ngành, minh bạch hóa dữ liệu môi trường và dòng nguyên liệu, tạo điều kiện để các mối liên kết cộng sinh được vận hành ổn định và hiệu quả; (4) Chính sách hỗ trợ, đào tạo nâng cao cho cá nhân điều hành doanh nghiệp và ban quản lý KCNST về cộng sinh công nghiệp; (5) Xác định bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả cộng sinh nhằm giám sát, xếp hạng và khen thưởng các khu công nghiệp điển hình.
- Chính sách kinh tế tuần hoàn bổ trợ khác: (1) Ban hành Luật hoặc Chiến lược quốc gia, lồng ghép nguyên tắc tuần hoàn vào quy hoạch, chiến lược phát triển công nghiệp và công cụ quản lý nhà nước như cấp phép đầu tư, đánh giá môi trường; (2) Các chinh sách về xây dựng, áp dụng tiêu chí tuần hoàn; (3) Chính sách hỗ trợ tài chính, công nghệ và thị trường như: ưu đãi thuế, tín dụng xanh và quỹ đầu tư tuần hoàn; (4) Chính sách thúc đẩy chuyển giao công nghệ tuần hoàn và xây dựng hạ tầng kỹ thuật, trung tâm đổi mới sáng tạo gắn với KTTH.
2. Thực trạng phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu công nghiệp sinh thái
Theo báo cáo của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO), mô KCNST lần đầu tiên được giới thiệu tại Việt Nam vào năm 2009, trong khuôn khổ các chương trình hợp tác kỹ thuật quốc tế, đặc biệt là giữa UNIDO, Cơ quan Hợp tác Kinh tế Thụy Sỹ (SECO), và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF). Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn 2009–2015, sự phát triển của các KCNST tại Việt Nam chủ yếu mang tính thử nghiệm rời rạc, thiếu liên kết hệ thống và chưa được đặt trong một khung pháp lý thống nhất. Các sáng kiến lúc bấy giờ được thực hiện đơn lẻ tại một số khu công nghiệp như Trà Nóc (Cần Thơ), Khánh Phú (Ninh Bình), và Hòa Khánh (Đà Nẵng), dưới hình thức mô phỏng tiếp cận quốc tế nhưng thiếu tính thể chế hóa và chiến lược nhân rộng ở cấp quốc gia. Năm 2015, khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với sự hỗ trợ kỹ thuật từ UNIDO và GIZ (Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức), đã khởi xướng dự án “Triển khai sáng kiến khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ chương trình toàn cầu”. Dự án này đánh dấu nỗ lực đầu tiên trong việc thể chế hóa mô hình KCNST trên phạm vi quốc gia, đồng thời thiết lập nền tảng cho việc nội luật hóa các tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững, sử dụng tài nguyên hiệu quả và cộng sinh công nghiệp.
Đến nay, Việt Nam chưa có KCN nào được công nhận, cấp chứng chỉ là KCNST mà chỉ có một số KCN áp dụng thí điểm mô hình KCNST nhờ sự hỗ trợ của một số cơ quan quốc tế. Năm 2019, Việt Nam có 5 khu công nghiệp được chuyển đổi thí điểm theo mô hình KCNST, gồm: KCN Trà Nóc 1 và Trà Nóc 2 (Cần Thơ), KCN Khánh Phú (Ninh Bình), KCN Hòa Khánh (Đà Nẵng), và KCN Hiệp Phước (TP.HCM). Đến năm 2023, hai khu công nghiệp mới là KCN Đình Vũ (Hải Phòng) và KCN Amata (Đồng Nai) được bổ sung vào mạng lưới KCNST quốc gia thí điểm, nâng tổng số lên 7 KCNST trên toàn quốc. Tuy nhiên, con số này vẫn còn khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 2,3% trong tổng số 304 khu công nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, thấp hơn so với tỷ lệ một số nước trong khu vực.
Bên cạnh đó, mức độ phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn (thể hiện qua mức độ cộng sinh công nghiệp) của các KCNST tại Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước. Phần lớn hoạt động cộng sinh trong các KCNST của Việt Nam chưa đạt tới cấp độ hệ thống. Các mô hình hiện hành chủ yếu dừng ở các dạng cộng sinh đơn hướng hoặc cộng sinh vật lý đơn giản, như chia sẻ nước thải đã qua xử lý, thu gom hơi nhiệt dư, hoặc sử dụng chung hạ tầng logistics, trao đổi vật liệu hoặc năng lượng tiên tiến hơn tạo ra các hệ thống vòng kín là rất hiếm (UNIDO & MPI, 2019).
2.2. Thực trạng chính sách về phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam
Thứ nhất, quá trình hình thành khu KCNST của Việt Nam còn ở giai đoạn ban đầu do Việt Nam phát triển KCNST muộn hơn nhiều nước cả về thời điểm khởi động lẫn mức độ hoàn thiện thể chế. Do đó các chính sách liên quan đến phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong KCNST mới chỉ ở giai đoạn hình thành, chưa hoàn thiện.. Việt Nam chỉ bắt đầu thí điểm KCNST từ khoảng năm 2009 thông qua một số dự án hợp tác quốc tế như dự án EIP do UNIDO tài trợ, triển khai tại các khu như Trà Nóc 1 & 2 (Cần Thơ), Khánh Phú (Ninh Bình), Hòa Khánh (Đà Nẵng)... Tuy nhiên, những hoạt động này chủ yếu mang tính kỹ thuật, thử nghiệm cộng sinh đơn lẻ, chưa được đưa vào chính sách nhà nước ở cấp hệ thống. Đến năm 2018, khái niệm KCNST mới xuất hiện lần đầu trong văn bản pháp quy của Việt Nam, với Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 25/5/2018, sau này được bổ sung, hoàn thiện tại Nghị định 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 tiệm cận hơn với thông lệ quốc tế nhưng vẫn chưa đi kèm với các hướng dẫn kỹ thuật cụ thể, cơ chế giám sát hay lộ trình chuyển đổi bắt buộc. Thông tư số 05/2025/TT-BKHĐT ban hành ngày 24/1/2025 hình thành khung pháp lý tương đối rõ ràng về các điều kiện thành lập và vận hành Khu CNST.
Thứ hai, Việt Nam còn thiếu những chính sách nhằm phát triển cộng sinh CN trong KCNST hay những chính sách phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu
- Các quy định về KCNST (Quy định tại Nghị định 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022) còn mang tính hỗ trợ rời rạc, chủ yếu theo hướng tăng cường bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp nói chung, hơn là định hình một mô hình cộng sinh công nghiệp toàn diện. Đến thông tư 05/2025/TT-BKHĐT ngày 24/01/2025 đã có những quy định rõ ràng hơn, tuy nhiên Việc phát triển KCNST hiện vẫn dựa phần lớn vào các chương trình hỗ trợ quốc tế và thí điểm cục thay vì là một mục tiêu có tính bắt buộc, xuyên suốt trong chiến lược công nghiệp quốc gia.
- Thiếu cơ chế ưu đãi tài chính và hạ tầng chia sẻ nhằm phát triển cộng sinh CN trong KCNST;
- Thiếu chính sách xây dựng, phát triển thị trường phụ phẩm và nền tảng chia sẻ dữ liệu cộng sinh, gây cản trở cho việc thiết lập các mối liên kết tuần hoàn nội khu và liên khu.
- Trách nhiệm quản lý, theo dõi và giám sát KCNST hiện được phân bổ cho nhiều bộ ngành và các Sở ngành địa phương, tuy có đầy đủ chức năng nhưng thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả và phân cấp rõ ràng (UNIDO, 2023):
+ Bộ Kế hoạch và đầu tư trước đây, Bộ tài chính hiện tại giữ vai trò hướng dẫn, cấp chứng nhận KCNST, nhưng lại chưa có quy trình, bộ công cụ hoặc nền tảng số thống nhất để theo dõi tiến độ chuyển đổi và tác động tổng thể.
+ Ban Quản lý KCN tại địa phương là đơn vị thực hiện chính, nhưng năng lực và nguồn lực còn hạn chế; việc giám sát cộng sinh công nghiệp, RECP, và thực hiện báo cáo môi trường - xã hội còn mang tính hình thức, thiếu dữ liệu thực chất.
- Chưa có đầu mối điều phối liên ngành ở cấp trung ương để tích hợp và quản lý đồng bộ quá trình phát triển KCNST trên cả nước.
Thứ ba, Việt Nam đã hình thành khung pháp lý định hình mô hình phát triển KTTH nói chung, nền tảng phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong KCNST:
- Luật bảo vệ môi trường năm 2020 (Hai văn bản hướng dẫn là Nghị định số 08/2022/NĐ-CP và Nghị định số 05/2025/NĐ-CP) là văn bản đầu tiên quy định KTTH như một định hướng chiến lược, lồng ghép nguyên tắc tuần hoàn vào trong thiết kế chiến lược, quy hoạch, và dự án phát triển. Luật đã đặt ra trách nhiệm cụ thể cho các bộ ngành và địa phương trong việc thúc đẩy mô hình KTTH và giám sát triển khai, từ đó tạo điều kiện để KCNST được quy hoạch, thiết kế và vận hành theo tư duy khép kín, tiết kiệm tài nguyên, và tái sử dụng chất thải. yêu cầu lồng ghép tuần hoàn vào các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung.
Các chính sách quản lý chất thải, đặc biệt là Nghị định số 38/2015/NĐ-CP tạo khung kỹ thuật cho việc kiểm soát, phân loại, tái chế và tái sử dụng chất thải, yếu tố trung tâm của hoạt động cộng sinh trong KCNST. Các quy định về xử lý chất thải rắn công nghiệp, phế liệu nhập khẩu, chất thải nguy hại… cho phép phân dòng và tái cấu trúc chu trình vật liệu giữa các doanh nghiệp trong KCN.
- Quyết định số 687/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Đề án phát triển KTTH ở Việt Nam nhấn mạnh vai trò của KTTH trong cải thiện năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao khả năng chống chịu của doanh nghiệp. Đề án khuyến khích thiết kế chuỗi cung ứng theo mô hình tuần hoàn, ứng dụng công nghệ tái sử dụng và tối ưu dòng vật liệu, đây là nền tảng để các KCNST định hình lại cấu trúc sản xuất theo hướng giảm thiểu tài nguyên đầu vào và tối ưu phụ phẩm đầu ra.
- Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội đã ban hành nhiều cơ chế đặc biệt để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào đổi mới công nghệ, cộng sinh công nghiệp và sản xuất tuần hoàn. Cụ thể, chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi tín dụng xanh, hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực chất lượng cao là những đòn bẩy then chốt để các doanh nghiệp trong KCNST đủ năng lực tham gia vào mạng lưới cộng sinh và đầu tư vào mô hình tái chế, tái sử dụng.
- Ngoài ra, các chương trình như Chiến lược tăng trưởng xanh (Quyết định 1658/QĐ-TTg), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia (450/QĐ-TTg) và Quy hoạch điện VIII (768/QĐ-TTg), với định hướng ưu tiên năng lượng tái tạo, vật liệu sinh học, sản phẩm thân thiện môi trường… cũng tạo điều kiện để KCNST tiếp cận nguồn lực và công nghệ phục vụ chuyển đổi mô hình sản xuất sang tuần hoàn.
3. Kết luận và Khuyến nghị chính sách
3.1. Kết luận
Hợp tác quốc tế đã đặt nền móng cho việc thể chế hóa mô hình KCNST tại Việt Nam, trong đó có việc hình thành, phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu tuy nhiên mức độ phát triển vẫn còn khá hạn chế, cả về quy mô, chiều sâu cộng sinh công nghiệp và mức độ tích hợp KTTH vào mạng lưới chuỗi cung ứng toàn khu.
Thứ nhất, việc thiếu nền tảng dữ liệu chia sẻ, thị trường phụ phẩm, hạ tầng dùng chung đồng bộ và liên kết doanh nghiệp đã cản trở sự vận hành hiệu quả của các khu công nghiệp sinh thái (KCNST) tại Việt Nam theo nguyên lý chuỗi cung ứng tuần hoàn "rác thải đầu ra là đầu vào của một quá trình khác". Bên cạnh đó, số lượng KCNST của Việt Nam so với tổng số KCN còn thấp gây khó khăn trong việc áp dụng mô hình chuỗi cung ứng tuần hoàn trong các KCN này rộng rãi cũng như đặt ra các thách thức trong việc hoạch định chính sách phát triển chuỗi cung ứng trong khu.
Thứ hai, ở phương diện chính sách, mặc dù Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng với Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định 35/2022/NĐ-CP, thông tư 05/2025/TT-BKHĐT, và Đề án phát triển KTTH (Quyết định 687/QĐ-TTg). Tuy nhiên Việt Nam chưa có quy định lộ trình chuyển đổi, chưa có các tiêu chí định lượng quy định mức độ cộng sinh, và đặc biệt chưa có các công cụ tài chính đủ mạnh (như quỹ tín dụng xanh, ưu đãi thuế cộng sinh, hỗ trợ chuyển giao công nghệ tuần hoàn) để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào cộng sinh công nghiệp quy mô lớn nhằm phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong các KCNST.
Thứ ba, từ góc nhìn quản lý nhà nước, Việt Nam đang thiếu một đầu mối điều phối liên ngành ở cấp trung ương có quyền lực và năng lực để tích hợp, giám sát và dẫn dắt toàn bộ tiến trình phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong các KCNST. Các bộ ngành và ban quản lý địa phương hiện vẫn hoạt động phân tán, thiếu chia sẻ thông tin, dẫn đến sự đứt gãy trong cơ chế từ chính sách đến thực thi, giám sát thực hiện. Bên cạnh đó, việc thiếu một nền tảng MRV (giám sát, báo cáo, xác minh) thống nhất khiến quá trình chuyển đổi KCNST chưa được lượng hóa, không đo lường được hiệu quả thực chất về kinh tế, xã hội và môi trường.
3.2. Khuyến nghị chính sách
3.2.1. Chính sách thúc đẩy và nâng cấp mức độ cộng sinh công nghiệp trong KCNST (phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong KCN sinh thái)
- Xây dựng cơ chế khuyến khích theo cấp độ cộng sinh tức mức độ ứng dụng kinh tế tuần hoàn tại các chuỗi cung ứng trong nội khu: Ban hành chính sách ưu đãi theo cấp độ cộng sinh công nghiệp: từ cấp cơ bản (chia sẻ hạ tầng, phụ phẩm) đến cấp cao (liên kết chuỗi giá trị, tái tạo nguyên liệu, hợp tác nghiên cứu, phát triển) như miễn giảm thuế tài nguyên, thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất, và ưu tiên đấu thầu công.
- Phát triển nền tảng số và thị trường phụ phẩm: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dòng nguyên phụ liệu theo chuỗi cung ứng trong khu dựa trên nguyên tắc của mô hình cộng sinh công nghiệp. Ngoài ra cần hình thành một thị trường phụ phẩm quốc gia, nơi các doanh nghiệp trong và ngoài KCNST có thể trao đổi chất thải, phế liệu, nhiệt dư, CO₂… theo cơ chế giá thị trường minh bạch.
- Nâng cao năng lực kỹ thuật và quản trị cộng sinh tại địa phương: Để triển khai hiệu quả chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu, cần tổ chức chương trình đào tạo chuyên sâu và chuẩn hóa năng lực cho cán bộ ban quản lý KCN, doanh nghiệp và các sở ngành liên quan về kỹ thuật lập bản đồ cộng sinh, phân tích vòng đời sản phẩm (LCA), công nghệ tuần hoàn và vận hành hệ thống MRV,…
- Ưu tiên áp dụng KCNST cho ngành có tác động lớn, có tính khả thi ứng dụng chuỗi cung ứng tuần hoàn: Xây dựng lộ trình bắt buộc áp dụng mô hình cộng sinh công nghiệp cho các ngành có mức độ phát thải cao và tiềm năng liên kết lớn (như dệt may, hóa chất, thực phẩm chế biến, t1hép, giấy), đặc biệt tại các vùng kinh tế trọng điểm và địa phương có chỉ số ô nhiễm cao.
3.2.2. Chính sách phát triển, hình thành (về số lượng) các KCNST
Tại Việt Nam chưa có KCNST chính thức, số lượng các KCN thí điểm áp dụng mô hình này rất thấp do đó việc phát triển KCNST là yếu tố nền tảng để hình thành, phát triển chuỗi cung ứng tuần hoàn trong khu.
- Cần xác định KCNST là một cấu phần chiến lược trong Chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời lồng ghép chỉ tiêu phát triển KCNST vào quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch sử dụng đất. Không nên coi đây là mô hình thí điểm tự nguyện, mà là yêu cầu bắt buộc nhất định đối với các khu công nghiệp mới và các KCN hiện hữu thuộc ngành có rủi ro môi trường cao như dệt may, hóa chất, chế biến thực phẩm.
- Cần ban hành khung chính sách quốc gia về phát triển KCNST: Khung này cần bao gồm: (1) bộ tiêu chí đánh giá KCNST phù hợp với thông lệ quốc tế (như khung đánh giá của UNIDO), (2) cơ chế chứng nhận nhiều cấp độ của KCNST, (3) quy trình và nền tảng số MRV (giám sát, báo cáo, xác minh) thống nhất, hiệu quả, chính sách ưu đãi tài chính, thuế, tín dụng, đất đai dành riêng cho KCNST.
- Ban hành chỉ tiêu phát triển bắt buộc KCNST theo tỷ lệ tối thiểu được phân bổ cho từng địa phương và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, làm cơ sở để phân bổ đầu tư công và đánh giá kết quả điều hành.
- Xây dựng cơ chế điều phối liên ngành cấp quốc gia: Thiết lập một ban điều phối phát triển KCNST liên bộ ngành có chức năng xây dựng chính sách tổng thể, hỗ trợ kỹ thuật, điều phối ngân sách và giám sát kết quả thực hiện từ cấp trung ương đến địa phương để bảo đảm triển khai thống nhất trên toàn hệ thống.
3.2.3. Chính sách kinh tế tuần hoàn bổ trợ khác
- Rà soát, thống nhất các chính sách liên quan đến KTTH trong đó có quy định cụ thể về tiêu chuẩn vật liệu tuần hoàn, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), và lộ trình bắt buộc tái chế, tái sử dụng trong các khu sản xuất tập trung.
- Thiết lập hệ thống thuế môi trường và phát triển thị trường tín chỉ carbon nội địa: Xây dựng cơ chế tín dụng carbon và thuế môi trường lũy tiến, trong đó các KCNST phát thải thấp, sử dụng phụ phẩm tái tạo được cấp tín chỉ carbon hoặc miễn thuế môi trường, tạo động lực tài chính rõ ràng cho chuyển đổi mô hình sản xuất.
- Phát triển mô hình cộng sinh mở rộng với đô thị và cộng đồng: Khuyến khích xây dựng các mô hình “KCNST - đô thị - cộng đồng” theo hướng cộng sinh xã hội, nơi doanh nghiệp, chính quyền và cư dân phối hợp chia sẻ tài nguyên, hạ tầng, chất thải và năng lượng. Điều này đòi hỏi tích hợp giữa quy hoạch KCN, quy hoạch đô thị và hệ thống dịch vụ công, với sự phối hợp của Bộ Xây dựng, Bộ TNMT và chính quyền địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Boons, F., Spekkink, W. and Mouzakitis, Y. (2011). The dynamics of industrial symbiosis: a phase model developed from social theory. Journal of Industrial Ecology, 15(6), pp. 850–865.
[2] Chertow, M.R. (2000). Industrial Symbiosis: Literature and Taxonomy. Annual Review of Energy and the Environment, 25, pp. 313–337.
[3] Diễn đàn Kinh tế tuần hoàn Việt Nam 2024: Thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam - Từ kế hoạch đến hành động,
[4] Domenech, T. and Davies, M. (2011). Structure and morphology of industrial symbiosis networks: The case of Kalundborg. Procedia - Social and Behavioral Sciences, 10, pp. 79–89
[5] Geng, Y., Sarkis, J., Ulgiati, S. and Zhang, P. (2010). Measuring China's Circular Economy. Science, 337(6097), pp. 825–827.
[6] Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 ngày 17-11-2020.
[7] Maolanont, T. and Pochanart, P. (2023) Evolution of Thailand’s Eco-Industrial Towns Development: Challenges and Obstacles. International Journal of Sustainable Development and Planning, 18(3), pp.663–672. Available at: https://doi.org/10.18280/ijsdp.180322
[8] Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10-1-2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
[9] Nghị đinh số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 quy định về quản lý KCN và khu kinh tế - Điều 37, khoản 2 (b).
[10] Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ về phát triển bền vững.
[11] Nguyễn Văn Thành (2022), “Phát triển kinh tế tuần hoàn - Hướng đi tất yếu nhằm tận dụng tất cả các nguồn lực, BVMT sinh thái vì sự PTBV”. Tạp chí Cộng sản, ngày 27/5/2022.
[12] Như Hiệp (2021), “Hành trình đến chuỗi cung ứng tuần hoàn”, tạp chí điện tử The Leader, truy cập 18h ngày 08/9/2025 tại đường link: https://theleader.vn/hanh-trinh-den-chuoi-cung-ung-tuan-hoan-d20915.html
[13] Park, H.S., Rene, E.R., Choi, S.M. and Chiu, A.S.F. (2008). Strategies for sustainable development of industrial park in Ulsan, South Korea—From spontaneous evolution to systematic expansion of industrial symbiosis. Journal of Environmental Management, 87(1), pp.1–13.
[14] Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07-6-2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
[15] Shao, Y., Liu, J., Hua, X., Kularathne, C. & Shi, L. (2024) Applicability of the International Framework for Eco‑Industrial Park in China—Survey and Analysis Based on 17 Case Parks in Jiangxi Province. Sustainability, 16(11), Article 4635
[16] UNEP and UNIDO (2017). Eco-Industrial Parks: A Technical Framework. United Nations Environment Programme and United Nations Industrial Development Organization.
[17] UNIDO & MPI (2019), Review of International and Vietnamese Experiences on Eco-Industrial Parks
[18] UNIDO (2017). An International Framework for Eco-Industrial Parks. United Nations Industrial Development Organization, World Bank Group, GIZ.
[19] UNIDO. (2023). Monitoring, Reporting and Verification of Eco-Industrial Park Performance in Vietnam. Vienna: United Nations Industrial Development Organization.
[20] UNIDO. (2024). Independent Evaluation of the Global Eco‑Industrial Parks Programme (GEIPP).