
Nâng cao năng lực áp dụng tự vệ thương mại của Việt Nam bối cảnh đẩy mạnh hội nhập đẩy mạnh quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 59-NQ/TW
10:34 - 06/12/2025
ThS. Lê Anh Tú, ThS. Nguyễn Việt Hà, ThS. Nguyễn Phi Long
Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
Tóm tắt: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác hội nhập quốc tế của Việt Nam đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng và mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại. Năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam thời gian qua đã từng bước được nâng cao nhằm đáp ứng yêu cầu mới. Cơ sở pháp lý và các văn bản hướng dẫn quản lý và tổ chức thực hiện trong lĩnh vực tự vệ thương mại đang trong quá trình hoàn thiện. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng của các cán bộ, công chức làm công tác liên quan đến phòng vệ thương mại nói chung và tự vệ thương mại nói riêng ngày càng được nâng cao và cơ bản đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến chuyển khó lường.Nội dung bài viết này tập trung vào một số vấn đề về phòng vệ thương mại, nâng cao năng lực áp dụng tự vệ thương và một số nội dung khác cần cập nhật cho công chức đang thực hiện nhiệm vụ tại Bộ Công Thương, Sở Công Thương các địa phương và công chức xã có liên quan theo đơn đặt của Bộ Công Thương.
Từ khóa: Phòng vệ thương mại; Tự vệ thương mại
1. Môt số vấn đề về nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
1.1 Khái niệm về thương mại quốc tế
“Thương mại quốc tế” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Đó là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia, hoặc/ và là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất giữa các tổ chức cá nhân trong nước với yếu tố nước ngoài. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế trên 4 lĩnh vực chủ yếu là thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp về đầu tư liên quan đến thương mại và các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, phạm vi nghiên cứu và thực tiễn các chính sách quản lý đối với thương mại quốc tế đã được mở rộng ra rất nhiều lĩnh vực, liên quan đến mối quan hệ giữa con người với con người như lao động việc làm, quyền con người…, và mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên như vấn đề môi trường, …
Nhiệm vụ này tiếp cận khái niệm về thương mại quốc tế: “Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận”.
1.2 Khái niệm về phòng vệ thương mại
Phòng vệ thương mại là một phần trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia, gồm các biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ[1]. Các biện pháp phòng vệ thương mại được sử dụng nhằm bảo vệ hợp pháp và hợp lý các ngành công nghiệp trong nước khỏi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Ngoài ra, các biện pháp phòng vệ thương mại còn được sử dụng như hàng rào hạn chế gia nhập thị trường. Tự do hoá thương mại quốc tế đã làm cho hàng rào thuế quan dần bị loại bỏ, dẫn đến các ngành sản xuất trong nước vốn vẫn được bảo vệ bởi chính sách thuế cao trước đó bị lâm vào tình thế khó khăn và dẫn đến khả năng sụp đổ khi phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài với tiềm lực mạnh mẽ hơn về mọi mặt.
Tuy nhiên, để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, các biện pháp phòng vệ thương mại còn được sử dụng như công cụ trá hình nhằm hạn chế hàng hoá nhập khẩu, mặc dù Tổ chức Thương mại Thế giới đã có những qui định những nguyên tắc về thủ tục nhằm đưa việc áp dụng những biện pháp phòng vệ thương mại này vào khung khổ pháp lý cụ thể thông qua ba Hiệp định về Chống bán phá giá; Hiệp định về Trợ cấp và Thuế đối kháng; và Hiệp định về Tự vệ để hạn chế tối đa tình trạng lạm dụng các biện pháp này.
1.3 Khái niệm về tự vệ trong thương mại quốc tế
Thuật ngữ “biện pháp tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp đối với việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đây chỉ là thông tin cơ bản về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung. Chẳng hạn như, trong tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina – Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra cam kết.
Yong Shik Lee, Safeguard Measures in world trade, The Legal Analysis, Third Edition (2014) xác định, thuật ngữ “biện pháp tự vệ” được sử dụng để đề cập đến hạn chế nhập khẩu, được áp dụng như là một biện pháp tạm thời khi có sự gia tăng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp. Theo Yong Shik Lee, tự vệ còn có thể hiểu rộng hơn, gồm những trường hợp các bên “đi ngược lại” với những cam kết của mình và hạn chế nhập khẩu, không tính đến việc có hay không hành vi thương mại không lành mạnh: Điều XIX, XII, XVIII Hiệp định GATT 1994, Hiệp định Tự vệ (Hiệp định SG), Hiệp định nông nghiệp (AOA), Điều XII Hiệp định GATS. Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, cho phép tự vệ đặc biệt đến các sản phẩm trong thời gian chuyển đổi, chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu từ nước này. Biện pháp tự vệ nói chung (Điều XIX) được áp dụng cho mọi loại hàng hoá, trong khi những biện pháp tự vệ khác chỉ áp dụng giới hạn cho một số hàng hoá (sản phẩm nông nghiệp, dệt may), hoặc có thể không hướng đến việc bảo vệ hay ngăn ngừa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước (đối với trường hợp sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán).
Mặc dù có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng để có thể hiểu: “Biện pháp tự vệ là một trong ba bộ phận cấu thành của biện pháp phòng vệ thương mại. Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ, hỗ trợ ngành sản xuất hàng hoá tương tự, hoặc cạnh tranh trực tiếp của nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cấp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng[2] do tình trạng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra”.
Biện pháp tự vệ thường được áp dụng một cách khắt khe hơn biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, vì để áp dụng biện pháp này, cơ quan điều tra phải chứng minh được tình trạng thiệt hại nghiêm trọng mà ngành sản xuất hàng hoá tương tự[3] hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp[4] trong nước phải chịu do sự gia tăng (về quy mô, số lượng) của hàng hoá nhập khẩu. Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu những hàng hoá đó tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
1.4 Khái niệm về năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Năng lực là một thuật ngữ phổ biến được sử dùng với nội hàm ban đầu gắn với con người cụ thể. Đó là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó như năng lực tư duy, năng lực tài chính hoặc là phẩm chất tâm sinh lý và trình độ chuyên môn tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” như năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Năng lực là đặc điểm của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo - tức là có thể thực hiện một cách thành thục và chắc chắn - một hay một số dạng hoạt động nào đó”. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Thế giới (OECD) quan niệm năng lực là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể”. Theo Cục quản lý nhân sự (OPM) của Hoa Kỳ, năng lực được hiểu là đặc tính có thể đo lường được của kiến thức, kỹ năng, thái độ, các phẩm chất cần thiết để hoàn thành được nhiệm vụ và là yếu tố giúp một cá nhân làm việc hiệu quả hơn so với những người khác.
Nói cách khác, năng lực là khả năng thực hiện công việc của một chủ thể xác định. Khả năng đó thể hiện qua việc đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu của nhiệm vụ, đảm bảo đạt kết quả tối ưu. Năng lực của con người là kết quả huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và tinh thần, phong cách làm việc của cá nhân. Như vậy, có thể hiểu: “Năng lực là tổng hợp các thuộc tính riêng có của chủ thể tạo thành khả năng đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả tối ưu”.
1.5 Nhân tố ảnh hưởng đến năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
1.5.1. Nhóm nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
- Quá trình cải cách hành chính được đẩy mạnh là điều kiện thuận lợi để đổi mới cơ chế và quản lý các hoạt động thương mại: Quá trình cải cách hành chính trong nước là điều kiện để thực thi các cam kết trong thương mại quốc tế, cũng như tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động thương mại. Bên cạnh đó, cũng tạo ra các điều kiện để phát hiện và thực thi các biện pháp phòng vệ thương mại, giải quyết tranh chấp trong các hoạt động thương mại theo các cam kết quốc tế và quy định của pháp luật.
- Nhận thức của các hiệp hội và doanh nghiệp trong vấn đề liên quan đến lợi ích từ các vụ việc về tự vệ thương mại: Hội nhập kinh tế quốc tế, về cơ bản mang lại nhiều lợi ích tổng thể và dài hạn. Tuy nhiên, sẽ tác động đến lợi ích của toàn xã hội, trong đó có các lợi ích của các Hiệp hội, doanh nghiệp và cả các nhóm xã hội khi xảy ra các mâu thuẫn, xung đột lợi ích. Những ngành sản xuất và dịch vụ trước đây vốn được bảo hộ cao, nhận được nhiều trợ cấp sẽ bị mất đi những lợi ích, nhất là khi hàng hoá nước ngoài, với chất lượng, mẫu mã tốt và giá thành cạnh tranh ồ ạt nhập khẩu vào thị trường trong nước.
Khi Việt Nam tham gia các FTA, thực hiện cam kết về thương mại hàng hoá, nhiều ngành có khả năng bị tác động mạnh như dệt may, da giày, điện tử, ô tô, nông nghiệp... Chính vì vậy, cần phải có sự nhất trí cao trong các bộ, ngành, từ trung ương đến địa phương vì mục tiêu phát triển chung của đất nước. Cần phải có sự thoả hiệp, nhượng bộ lẫn nhau trong giải quyết các mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các ngành công nghiệp, các hiệp hội ngành hàng, từ trung ương đến địa phương vì mục tiêu phát triển chung của đất nước.
- Môi trường và điều kiện làm việc: Môi trường và điều kiện làm việc trong các tổ chức, cơ quan cụ thể bị quy định bởi thể chế môi trường chung của toàn quốc gia và các quy định cụ thể của cơ quan, tổ chức đó. Tuy nhiên, tại từng cơ quan, tổ chức môi trường và điều kiện làm việc phụ thuộc lớn vào người lãnh đạo, quản lý.
1.5.2. Nhóm nhân tố khách quan ảnh hưởng đến năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
- Nhân tố mang tính quốc tế: Xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đòi hỏi các nước tăng cường năng lực quốc gia để xử lý các vấn đề quốc tế liên quan đến áp dụng các biện pháp TVTM với mục đích hội nhập sâu hơn và hiệu quả hơn và phù hợp hơn với thông lệ, qui định quốc tế. Nhiệm vụ đặt ra đối với các nước khi tham gia các FTA như Việt Nam là chuẩn bị, nâng cao năng lực áp dụng các biện pháp TVTM và thực hiện hiệu quả các cam kết đã ký kết.
- Nhân tố mang tính khu vực: Tham gia liên kết kinh tế trong khu vực dẫn đến việc cắt giảm thuế quan theo các cam kết trong các FTA. Giá hàng hoá nhập khẩu sẽ giảm xuống một cách tương đối và cạnh tranh hơn so với hàng nội địa. Lúc này sẽ xuất hiện nguy cơ thường trực về gia tăng khối lượng hàng hoá nhập khẩu.
2. Thực trạng năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam
2.1. Năng lực áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam
Trong thời gian qua, trước sự gia tăng về kim ngạch, quy mô cũng như tốc độ tăng trưởng trong nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được và có nhu cầu trong bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trước sự cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp nước ngoài thông qua việc sử dụng các công cụ và biện pháp theo qui định của pháp luật, trong các cam kết song phương, đa phương (WTO, FTAs…) và các thoả thuận khác. Trong đó có yêu cầu áp dụng các biện pháp TVTM và sử dụng công cụ này như là một cơ chế bảo vệ hàng hoá Việt Nam đối với hàng nhập khẩu có sự gia tăng đột biến tại thị trường trong nước. Tuy nhiên, số lượng các vụ việc về TVTM ở Việt Nam đến nay còn quá ít và có rất nhiều các lý do khiến các công cụ này chưa được sử dụng rộng rãi tại tại Việt Nam trong thời gian qua. Giai đoạn 2015 - 2020, trong số là 48 vụ việc điều tra PVTM có 6 vụ việc liên quan đến tự về thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, trong đó có 05 vụ dẫn tới áp dụng biện pháp TVTM.
a/ Cơ sở pháp lý để thực thi, áp dụng biện pháp TVTM
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong việc chuẩn bị đầy đủ điều kiện pháp lý để điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến lĩnh vực PVTM nói chung và TVTM nói riêng. Sự ra đời của Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/5/ 2002 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam cho thấy Việt Nam đã có sự chuẩn bị khá sớm, làm cơ sở thực thi áp dụng các biện pháp TVTM. Tiếp đó là việc ban hành Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. Nghị định 98/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương đã thành lập Cục Phòng vệ thương mại, tách ra từ Cục Quản lý cạnh tranh. Trên cơ sở đó, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 3752/QĐ-BCT ngày 02/10/2017 qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng vệ thương mại.
Luật Quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 6 năm 2017 và có hiệu lực từ 01/01/2020. Điều 70 của Luật (trình tự, thủ tục điều tra vụ việc phòng vệ thương mại) đã qui định về quy trình áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2020/NĐ-CP về qui định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng để Bộ Công Thương ban hành Thông tư số 06/2020/TT-BCTqui định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại. Gần đây nhất vào ngày 11/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại thay thế cho Nghị định số 10/2020/NĐ-CP.
Việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý về PVTM đã cho thấy sự nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong quản lý nhập khẩu và bảo vệ sản xuất trong nước, góp phần minh bạch hoá các chính sách luật lệ, đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, việc xây dựng hệ thống pháp lý và các chính sách về TVTM như là một công cụ bảo hộ hiệu quả nhằm hỗ trợ cho các nhà sản xuất trong nước khi có hiện tượng gia tăng hàng nhập khẩu một cách bất thường gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho họ là một vấn đề hết sức thiết thực và cần thiết nhất là đối với những nền kinh tế mới mở như Việt Nam để từng bước thích ứng được với môi trường cạnh tranh quốc tế đầy biến động.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã và đang tích cực, chủ động tham gia ký kết thoả thuận quốc tế có liên quan đến TVTM, đây là cơ sở quan trọng cho việc áp dụng và thực thi các biện pháp PVTM ở Việt Nam, điển hình là: Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO; Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA); Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA); Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Liên minh kinh tế Á Âu (VN-EAEUFTA); Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hồng Kông; CPTPPHiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU; VN-UK, Hiệp định đối tác toàn diện (RCEP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – I-xa-ren.
b/ Bộ máy tổ chức về phòng vệ thương mại
Cơ quan quản lý nhà nước về phòng vệ thương mại là Bộ Công Thương, trong đó Cục Phòng vệ thương mại là tổ chức trực thuộc, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương về PVTM. Cục Phòng vệ thương mại được hình thành trên cơ sở chia tách từ Cục Quản lý cạnh tranh, theo Nghị định 98/NĐ-CP ngày 18 tháng 08 năm 2017 của Chính phù về qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương.
c/ Năng lực của doanh nghiệp trong xử lý các vụ việc về TVTM
Dựa trên một khảo sát gần đây nhất của VCCI “Về khả năng kiện chống bán phá giá - chống trợ cấp - tự vệ (kiện phòng vệ thương mại) đối với hàng hoá nhập khẩu gây thiệt hại cho Việt Nam” vào tháng 7/2014 với 107 doanh nghiệp phản hồi (bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI) thuộc 06 ngành sản xuất cho thấy:
- Hiểu biết của doanh nghiệp đối với công cụ TVTM: Theo kết quả điều tra này điểm tích cực là phần lớn (khoảng 60-70% các doanh nghiệp được hỏi) đã biết về công cụ TVTM, khác với hơn 10 năm trước đây, hầu như không doanh nghiệp nào biết về TVTM và các biện pháp, công cụ áp dụng. Đặc biệt, các doanh nghiệp không chỉ biết về công cụ TVTM với tính chất là một rào cản ở nước ngoài (với hàng hoá xuất khẩu Việt Nam) mà còn biết đến chúng với tính chất công cụ có thể sử dụng ở trong nước, để bảo vệ chính mình.
- Tình trạng gia tăng nhập khẩu tăng đột biến vào Việt Nam: Nhiều doanh nghiệp không có thông tin hoặc có thông tin nhưng không đầy đủ, do đó, không thể đánh giá về tình hình gia tăng nhập khẩu đột biến của một loại hàng hoá nào đó. Nhưng theo đánh giá thị trường nội bộ, nhiều doanh nghiệp khác lại khẳng định có tồn tại hiện tượng hàng hoá nước ngoài nhập khẩu ồ ạt với lượng tăng đột biến vào Việt Nam thời gian qua ở các mức độ khác nhau. Nếu chỉ tính trên số các doanh nghiệp có thông tin để đánh giá về vấn đề này thì tỷ lệ khẳng định có tồn tại hiện tượng này lên tới trên 73%. Điều này cho thấy với những người biết thông tin, tình hình gia tăng nhập khẩu hàng hoá là hiện tượng rất phổ biến.
- Khả năng khởi kiện của các doanh nghiệp Việt Nam: Có một tỷ lệ tương đối các doanh nghiệp biết về công cụ TVTM. Mặc dù vậy, có một khoảng cách khá xa giữa việc nghe nói tới các công cụ này và việc nghĩ tới hay chủ động sử dụng công cụ này. Mặc dù đa số doanh nghiệp cho biết đã được nghe nói về công cụ TVTM có thể được sử dụng ở Việt Nam để chống lại hàng hoá nước ngoài cạnh tranh không lành mạnh hoặc nhập khẩu ồ ạt, chỉ có 14% số doanh nghiệp (được điều tra khảo sát) tính tới việc sử dụng công cụ này. Điều này cho thấy trái với các quan ngại của nhiều người về việc doanh nghiệp không biết về công cụ này, trên thực tế các doanh nghiệp có thể đã nghĩ tới công cụ này.
- Khả năng tập hợp lực lượng: Theo qui định của WTO, đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật liên quan của Việt Nam, thì để đứng đơn khởi kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp hoặc tự vệ, bên đi kiện phải có đủ tư cách đi kiện, tức là phải đáp ứng ít nhất 02 điều kiện (i) Các doanh nghiệp đi kiện phải sản xuất ra ít nhất 25% tổng lượng sản phẩm liên quan sản xuất tại Việt Nam; (ii) Đơn kiện nhận được sự ủng hộ của các doanh nghiệp sản xuất ra ít nhất 50% tổng lượng sản phẩm liên quan sản xuất tại Việt Nam.
- Khả năng tập hợp bằng chứng chứng minh: Tương tự như các vụ kiện thương mại khác, để kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp hoặc tự vệ đối với hàng hoá nhập khẩu, bên đi kiện phải tập hợp đầy đủ các thông tin, bằng chứng chứng minh rằng hàng hoá bị kiện đang bán phá giá, được trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam gây thiệt hại đáng kể/nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa của Việt Nam.
d/ Hiệp hội ngành hàng
Hiệp hội ngành hàng là nơi các doanh nghiệp cùng hoạt động trong một lĩnh vực và cùng có mối quan tâm chung, do đó, rất thích hợp để cho doanh nghiệp thu thập thông tin chuyên môn về vấn đề này. Tuy nhiên, ngoài một số Hiệp hội ngành hàng đã từng kinh qua các vụ kiện TVTM ở nước ngoài đối với hàng hoá Việt Nam xuất khẩu, hầu hết các Hiệp hội ngành hàng hiện cũng chưa có được hiểu biết cơ bản về công cụ TVTM.
e/ Năng lực phối hợp giữa cơ quan quản lí nhà nước về TVTM với các tổ chức và doanh nghiệp
Sự phối hợp giữa Bộ Công Thương với Tổng cục Hải quan, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Y tế, Khoa học và công nghệ…. trong quá trình tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM chưa thật sự chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ. Thông tin và trao đổi giữa các Bộ, ngành cũng như giữa các cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp về TVTM còn chưa đầy đủ và thưởng xuyên. Chưa có cơ chế phối hợp liên ngành cụ thể giữa Bộ Công Thương với các Bộ quản lý chuyên ngành có liên quan như đối với vấn đề trách nhiệm của các cơ quan trong việc phối hợp làm việc, điều động, biệt phái cán bộ tham gia vào các vụ điều tra TVTM...
3. Quan điểm, định hướng và một số giải pháp vĩ mô nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam
3.1. Quan điểm
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế cần gắn chặt với nâng cao chất lượng xây dựng các văn bản pháp lý về TVTM, hoàn thiện tổ chức của cơ quan điều tra TVTM và năng lực điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM.
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế nhằm nâng cao khả năng xác định, chứng minh rằng có hay không có sự gia tăng đột biến của hàng nhập khẩu, không phải là ban hành được bao nhiêu quyết định áp dụng biện pháp TVTM.
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế chỉ nhằm bảo vệ có thời hạn nền sản xuất trong nước, không bảo hộ tiêu cực sản xuất trong nước.
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế phải dựa trên cơ sở sự tương thích với nguyên tắc và pháp luật quốc tế về TVTM. Bảo đảm tính phù hợp và thống nhất của hệ thống pháp luật về TVTM hiện nay, gồm có Luật Quản lý ngoại thương; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; các qui định về TVTM, hải quan và quy tắc xuất xứ hiện hành.
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế nhằm bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản pháp luật về TVTM; bảo đảm tính công khai trong việc thực thi pháp luật và điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM;
- Tham khảo, học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM nhưng phải phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
3.2. Định hướng nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế theo hướng cho phép bảo hộ tự vệ trong những trường hợp thật cần thiết, khi đã xác định được đầy đủ các điều kiện theo qui định chung của pháp luật quốc tế để áp dụng biện pháp tự vệ;
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế theo hướng chỉ áp dụng trong phạm vi và mức độ cần thiết đủ để ngăn ngừa hay khắc phục những thiệt hại hay nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế theo hướng chỉ bảo hộ, hỗ trợ cho một số ngành sản xuất trong nước trọng điểm có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu phát triển về sau, tăng thu ngân sách và giải quyết lao động. Không áp dụng biện pháp tự vệ một cách tràn lan tạo tâm lý ỷ lại của các ngành sản xuất trong nước;
- Việc bảo hộ thông qua biện pháp tự vệ phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các cam kết quốc tế của Việt Nam. Thông qua các chính sách về bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng phải thể hiện được tinh thần hợp tác, tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi đồng thời không làm mất đi bản sắc riêng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam;
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế theo hướng xem xét một cách thận trọng, có cân nhắc khi đưa ra các qui định về việc áp dụng các biện pháp TVTM, biện pháp trả đũa cũng như nguy cơ bị trả đũa từ các nước có liên quan;
- Nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế theo hướng áp dụng khoa học - công nghệ để quản lý nhập khẩu và hỗ trợ công tác điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM.
3.3. Giải pháp vĩ mô nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới
Để nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới, cơ quan quản lý nhà nước về PVTM, trong đó có TVTM phải tiếp tục thay đổi mạnh mẽ, để xây dựng được: (i) Một hệ thống quy phạm pháp luật, chính sách thương mại đồng bộ và minh bạch, (ii) Một hệ thống công cụ thực thi luật pháp hiệu quả và công bằng, (iii) Một bộ máy công quyền với phương thức quản lý tiên tiến; và (iv) Đội ngũ cán bộ công chức có tính chuyên nghiệp, lấy việc phục vụ doanh nghiệp làm mục tiêu.
Cơ quan điều tra, áp dụng biện pháp TVTM cần đánh giá nhu cầu về năng lực sử dụng những nguyên tắc cụ thể và thực hiện việc đánh giá về năng lực kỹ thuật và kỹ năng, nguồn lực có sẵn cũng như kỹ năng, chuyên gia và nguồn lực cần để đảm bảo cho các biện pháp tự vệ được dự thảo dễ quản lý và dễ tiếp cận. Biện pháp áp dụng cho những sản phẩm cụ thể hoặc quốc gia cụ thể cần phải rõ ràng và minh bạch. Thủ tục và yêu cầu của quá trình thực thi cần được qui định rõ. Các biện pháp có thể thực thi, những yêu cầu trong quá trình điều tra lượng nhập khẩu tăng, thông báo khởi xướng điều tra, kết luận giữa kỳ và kết luận cuối cùng với các bên liên quan, quy trình tham vấn theo yêu cầu và giải quyết tranh chấp sẵn có cần dễ dàng tiếp cận, có thể hiểu được và có tính hiệu quả. Việc cho phép một số quốc gia sử dụng các biện pháp đặc biệt trên những sản phẩm nhất định trong khuôn khổ cần các điều kiện đơn giản, đồng thời thúc đẩy tính chắc chắn và tính minh bạch trong các qui định có thể giảm chi phí thực thi và gia tăng khả năng tiếp cận và dễ sử dụng. Một số giải pháp cụ thể như sau:
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về TVTM
Việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về TVTM thông qua việc điều chỉnh, cập nhật, chi tiết hoá các qui định hiện tại trong các văn bản pháp luật liên quan vào thời điểm này là cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều tra, áp dụng biện pháp TVTM cũng như đảm bảo tính an toàn pháp lý của các hoạt động này (trước nguy cơ bị các nước thành viên WTO kiện do vi phạm cam kết WTO).
Việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về TVTM cần những nghiên cứu sâu, kỹ càng cả về lý thuyết cũng như thực tiễn của thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, rà soát về những vấn đề vướng mắc thực tiễn điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM ở Việt Nam liên quan đến các qui định về điều kiện áp dụng biện pháp TVTM, đặc biệt là trong các FTA mới đây liên quan đến tự vệ song phương, vấn đề đền bù sau áp dụng biện pháp TVTM… Có thể thấy để nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ TVTM ở Việt Nam cần những hành động thực chất cả về thực tiễn lẫn pháp luật, của cả các doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Để đạt hiệu quả tốt nhất, các giải pháp này cần được thực hiện đồng thời, với sự phối hợp đồng thời của các chủ thể liên quan. Việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về TVTM của các cơ quan quản lý nhà nước cần sự tham gia tích cực của các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp.
3.3.2. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của cơ quan thực thi áp dụng các biện pháp TVTM
Ở Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ là Bộ Công Thương, trong đó Cục Phòng vệ thương mại là tổ chức trực thuộc, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương trong lĩnh vực này. Cục Phòng vệ thương mại mới được thành lập trên cơ sở tách từ Cục Quản lý cạnh tranh, nên về số lượng các cán bộ thực thi còn thiếu khá nhiều, khó đáp ứng được yêu cầu công việc ngày càng nhiều, nhất là trong công tác điều tra nên cần phải tăng cường về số lượng đội ngũ cán bộ này. Cục cần có kế hoạch, xây dựng chương trình đề xuất với Bộ xin chỉ tiêu cán bộ, công chức để chuẩn bị thực hiện những nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp liên quan đến điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM trong thời gian tới.
Ngoài ra, để tăng cường sự công khai, minh bạch. Có thể nghiên cứu về cơ chế phối hợp, hợp tác với tổ chức điều tra viên trong và ngoài nước tham gia các vụ việc điều tra một số vụ việc TVTM trọng điểm, có yếu tố phức tạp, khả năng phải bồi thường lớn khi áp dụng áp dụng các biện pháp TVTM chính thức.
3.3.3. Nâng cao năng lực đội ngũ điều tra viên trong điều tra, áp dụng các pháp TVTM
Tổ chức tập huấn chuyên sâu về kỹ năng của điều tra viên (Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp TVTM , kỹ năng áp dụng pháp luật nước ngoài, rà soát điều khoản về TVTM, áp dụng biện pháp tạm thời, biện pháp chính thức, kỹ năng thu thập chứng cứ, mời giám định viên; kỹ năng hoà giải trong tố tụng trọng tài, kỹ năng tổ chức các phiên họp, kỹ năng hỏi của điều tra viên, kỹ năng soạn thảo báo cáo đề xuất áp dụng các biện pháp TVTM, quy tắc đạo đức của điều tra viên…) và kinh nghiệm trong giải quyết các tranh chấp thương mại.
Nghiên cứu các chương trình hợp tác quốc tế để tổ chức cho điều tra viên học hỏi kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là đi thực tập tại các cơ quan của WTO liên quan đến TVTM quốc tế; nâng cao năng lực hội nhập quốc tế của điều tra viên; khuyến khích các điều tra viên Việt Nam tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp của điều tra viên quốc tế, tham gia diễn đàn quốc tế về TVTM (tập huấn, hội nghị, hội thảo quốc tế và khu vực…)
3.3. 4. Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành trong việc điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM
Trong quá trình điều tra áp dụng biện pháp TVTM việc tăng cường cơ chế phối hợp giữa Bộ Công Thương và các bộ ngành chức năng ngoài việc giúp nâng cao năng lực, khắc phục hạn chế trong quá trình điều tra còn là yếu tố quan trọng trong việc xác định đầy đủ, chính xác và khách quan đối với các yếu tố kỹ thuật ngoài khả năng thực hiện của các điều tra viên của Cục Phòng vệ thương mại. Việc phối hợp điều tra, trao đổi thông tin trước hết sẽ được thực hiện qua các kênh chính thống/các đầu mối của Bộ Công Thương với các bộ quản lý chuyên ngành (công tác biệt phái, báo cáo, giao ban định kỳ, hội nghị…). Trong thời gian tới đây, cần xây dựng quy chế phối hợp giữa Bộ Công Thương và các bộ ngành chức năng về điều tra áp dụng biện pháp TVTM.
3.3.5. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
Trước hết, cần bố trí cho Cục Phòng vệ thương mại nơi làm việc ổn định, độc lập để mở rộng chức năng và cơ sở vật chất. Được thành lập hơn 1 năm nay, nhưng Cục Phòng vệ thương mại vẫn chưa có trụ sở ổn định.
- Trước hết cần tạo điều kiện làm việc cho các cán bộ, điều tra viên các vụ việc về tự vệ thương mại như trang bị phương tiện làm việc, chỗ làm việc ổn định và hiện đại.
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp TVTM. Đặc biệt cần trang bị hệ thống máy tính kết nối mạng, thư viện và các cơ sở dữ liệu các vụ việc về TVTM. Cơ sở dữ liệu của Cục hiện nay rất hạn chế. Trang web của Cục còn đơn giản, chưa tích hợp cơ sở dữ liệu hoặc thư viện điện tử vào trang nền cần phải nhanh chóng xây dựng một thư viện điện tử có quy mô.
- Xem xét xây dựng hệ thống cảnh báo sớm về TVTM và có thể tích hợp cấu phần này vào hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá.
Tài liệu tham khảo
1. Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế (2017), Cẩm nang tích hợp các FTA theo lĩnh vực – Hướng dẫn thực thi cam kết về phòng vệ thương mại và giải quyết tranh chấp. NXB Hồng Đức, Hà Nội.
2. Bộ Công Thương (2015), Thông báo về việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng bột ngọt;
3. Bộ Công Thương (2016), Thông báo về việc áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối với phôi thép;
4. Bộ Công Thương (2016), Thông báo về việc điều tra áp dụng biện pháp PVTM;
5. Bộ Công Thương (2016), Thông báo về việc tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng tôn màu.
6. Bộ Công Thương (2017), Quyết định Số 3752/QĐ-BCT ngày 02/10/2017 của Bộ trưởng Bộ Công Thương.Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng vệ thương mại
7. Bộ Công Thương (2020), Quyết định số 686/QĐ-BCT về việc áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối với sản phẩm phân bón DAP và MAP nhập khẩu vào Việt Nam.
8. Bộ Thương mại, 2006, Đề án “Biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước phù hợp với các qui định của Tổ chức thương mại quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết”, Bộ Thương mại;
9. Bùi Xuân Lưu (2007), Giáo trình Kinh tế Ngoại Thương, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội
10. Cục Phòng vệ thương mại (2017), Sổ tay Phòng vệ thương mại, Hà Nội
[1] Cẩm nang tích hợp các FTA theo lĩnh vực – Hướng dẫn thực thi cam kết về phòng vệ thương mại và giải quyết tranh chấp. NXB Hồng Đức, Hà Nội
[2] Thiệt hại nghiêm trọng là sự suy giảm toàn diện đáng kể vị trí của ngành sản xuất trong nước trên cơ sở đánh giá tất cả các yếu tố liên quan đến tính hình của ngành đó như tỉ lệ và lượng gia tăng nhập khẩu tuyệt đối, tương đối của hàng hóa bị điều tra, sự gia tăng thị phần trong nước của hàng nhập khẩu, những thay đổi về cấp độ bán hàng, sản xuất, năng suất, công suất, lợi nhuận và việc làm, đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đến ngành đó (xác định dựa trên cơ sở thực tế).
[3] Hàng hóa tương tự là hàng hóa giống hệt (về tất cả các đặc tính) với sản phẩm bị điều tra. Trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì hàng hóa tương tự là sản phẩm mặc dù không giống hệ những có nhiều đặc điểm gần giống với hàng hóa bị điều tra
[4] Hàng hóa cạnh tranh trực tiếp là những hàng hóa có thể thay thế hàng hóa nhập khẩu bị điều tra ở một mức độ nhất định trên vào trong các điều kiện của thị trường nhập khẩu.
