Tăng cường khai thác Hiệp định Thương mại biên giới giữa Việt Nam và Lào
15:41 - 15/06/2025
TS. Nguyễn Văn Hội
Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
Tóm tắt: Tuyến biên giới đất liền giữa Việt Nam với Lào chạy qua 10 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Lào. Đến hết năm 2024, trên toàn tuyến biên giới đất liền Việt - Lào đã mở 15 cặp cửa khẩu quốc tế và song phương cho hoạt động qua lại của người, phương tiện giao thông vận tải, hàng hóa cùng các hoạt động thương mại qua biên giới. Việt Nam và Lào ký Hiệp định thương mại biên giới ngày 27/6/2015 với những cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù giữa hai nước. Qua đó, hoạt động thương mại biên giới giữa hai nước đã có những kết quả phát triển đáng ghi nhận về nhiều khía cạnh, cả về kim ngạch, mặt hàng và thương nhân. Hai nước đã tận dụng được một số cơ chế, chính sách trong Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào; kim ngạch thương mại biên giới Việt - Lào tăng trưởng cao, trong khoảng 10 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào tăng gần gấp 2 lần; mặt hàng trao đổi qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào không ngừng được mở rộng, đa dạng và phong phú; thương nhân hoạt động thương mại biên giới Việt - Lào phát triển nhanh về số lượng, khả năng và nguồn lực. Tuy nhiên, cả Việt Nam và Lào đều chưa tận dụng tốt, chưa khai thác tối đa cơ chế ưu đãi đặc thù, đặc biệt trong Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào. Trong bối cảnh quan hệ chính trị - đối ngoại ngày càng được củng cố và tăng cường, quan hệ kinh tế - thương mại sẽ tiếp tục phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu, cần tăng cường khai thác Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mỗi nước.
Từ khóa: thương mại biên giới, cửa khẩu biên giới, xuất nhập khẩu
- Phần mở đầu
1.1 Biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam – Lào
Tuyến biên giới đất liền giữa Việt Nam với Lào dài khoảng 2.067 km, chạy qua 10 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Kon Tum; đồng thời chạy qua 10 tỉnh của Lào gồm PhongSaLy, LuongPhaBang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bolikhamxay, Khăm Muộn, Savanakhet, SaLaVan, Xê Kông và Attapư.
Đến hết năm 2024, theo Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt – Lào năm 2016 và các điều ước quốc tế song phương giữa hai nước có liên quan, trên toàn tuyến biên giới đất liền của Việt Nam với Lào đã mở 15 cặp cửa khẩu quốc tế và song phương (hay còn gọi là cửa khẩu chính hoặc quốc gia), bao gồm 8 cửa khẩu quốc tế và 7 cửa khẩu song phương cho hoạt động qua lại của người, phương tiện giao thông vận tải, hàng hóa cùng các hoạt động thương mại qua biên giới.
Khu vực biên giới và cửa khẩu giữa Việt Nam với Lào chủ yếu là núi, đèo và rừng rậm nhiệt đới, địa hình phức tạp, hiểm trở, chia cắt mạnh bởi núi cao và vực sâu. Dân số sinh sống ở khu vực biên giới Việt – Lào chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số, sống thưa thớt tại các bản làng rất xa nhau. Đời sống vật chất và tinh thần của đa số đồng bào các dân tộc biên giới Việt – Lào còn nhiều thiếu thốn và lạc hậu. Bên cạnh đó, trình độ dân trí thấp nên còn gặp nhiều khó khăn trong nhận thức, hiểu biết, tiếp cận những thành quả khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, đồng bào các dân tộc hai bên biên giới Việt – Lào từ lâu đã có những mối quan hệ gần gũi, gắn bó, và có nhiều nét tương đồng trong phong tục tập quán. Hạ tầng kỹ thuật cửa khẩu bên phía Việt Nam cũng như Lào còn nhiều khó khăn và thiếu thốn; hệ thống giao thông trong khu vực cửa khẩu, kể cả các tuyến đường giao thông kết nối qua biên giới Việt – Lào nhìn chung còn yếu kém. Hoạt động sản xuất và kinh doanh khu vực biên giới Việt – Lào còn tương đối lạc hậu. Nhưng những mối giao lưu kinh tế - thương mại đã trở thành quan hệ láng giềng truyền thống giữa cư dân hai bên biên giới Việt – Lào.
1.2 Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào
Việt Nam và Lào ký Hiệp định thương mại biên giới ngày 27/6/2015 với những mục tiêu: thứ nhất, dành ưu đãi đặc thù cho thương mại biên giới giữa hai nước, góp phần thúc đẩy kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Lào, tăng cường hợp tác kinh tế - thương mại và hội nhập khu vực ASEAN và Tiểu vùng Mê-kông Mở rộng (GMS); thứ hai, xây dựng và phát triển các cửa khẩu biên giới Việt - Lào trở thành những cửa ngõ và cầu nối trung chuyển hàng hóa giữa các nước trong khu vực và thế giới; phục vụ thuận lợi hóa thương mại trong khu vực; thứ ba, tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư qua biên giới giữa Việt Nam và Lào, góp phần củng cố hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào; thứ tư, thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ giữa các tỉnh biên giới hai nước trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, xã hội và văn hóa, góp phần xây dựng đường biên giới chung Việt – Lào trở thành đường biên giới của giao lưu, hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững; thứ năm, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo, đặc biệt đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới, miền núi, vùng sâu, vùng xa của hai nước, góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội tuyến biên giới Việt – Lào.
Một số nội dung chính của Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào bao gồm: một là, quy định hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa của thương nhân, cư dân biên giới, phát triển chợ biên giới và hoạt động dịch vụ hỗ trợ thương mại biên giới và thuận lợi hóa thương mại tại cửa khẩu; hai là, thống nhất xác định các cửa khẩu biên giới đất liền được mở cho hoạt động thương mại biên giới; ba là, trên cơ sở cơ chế đặc thù của hoạt động thương mại biên giới phù hợp với các điều ước quốc tế song phương và đa phương mà hai nước là thành viên, dành ưu đãi thuế suất thuế nhập khẩu 0% cho các loại hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam và Lào; bốn là, thu hút, khuyến khích đầu tư vào các khu vực biên giới, miền núi, vùng sâu, vùng xa, dành ưu đãi 0% thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng, cũng như miễn các hàng rào kỹ thuật đối với một số mặt hàng do các nhà đầu tư Việt Nam sản xuất, nuôi, trồng tại các tỉnh biên giới của Lào khi nhập khẩu về Việt Nam; năm là, quy định về thanh toán trong thương mại biên giới, kiểm soát việc mang tiền mặt qua biên giới, cũng như quản lý xuất nhập cảnh đối với người, quản lý phương tiện vận tải, kiểm dịch, kiểm tra hàng hóa trong thương mại biên giới Việt – Lào; sáu là, cam kết tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch qua biên giới, phát triển dịch vụ hỗ trợ thương mại biên giới và thuận lợi hóa thương mại tại cửa khẩu; bảy là, thành lập Ban Chỉ đạo thương mại biên giới Việt – Lào, khuyến khích thành lập Hiệp hội thương nhân hoạt động thương mại biên giới Việt – Lào.
2. Kết quả hoạt động thương mại biên giới Việt – Lào
Triên cơ sở Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào, hoạt động thương mại biên giới giữa hai nước đã có những kết quả phát triển đáng ghi nhận về nhiều khía cạnh, cả về kim ngạch, mặt hàng và thương nhân.
2.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới Việt – Lào
Kể từ khi ký Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào năm 2015, trong khoảng 10 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào tăng gần gấp 2 lần, đạt 2.174,0 triệu USD năm 2024 so với 1.102,4 triệu USD của năm 2015. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới từ Việt Nam sang Lào tăng trên 1,3 lần, đạt 701,8 triệu USD năm 2024 so với 518,2 triệu USD của năm 2015. Đáng chú ý, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới từ Lào về Việt Nam tăng tương đối mạnh, gấp trên 2,5 lần, đạt 1.471,4 triệu USD năm 2024 so với 584,2 triệu USD của năm 2015.
Giai đoạn 2020-2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào đạt tốc độ tăng tương đối cao, trung bình 23,9% một năm, chiếm tỷ trọng trung bình 96,6% tổng kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước Việt Nam và Lào. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới từ Việt Nam sang Lào đạt tốc độ tăng trung bỉnh khoảng 10,0% một năm, chiếm tỷ trọng trung bình 95,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Lào. Trong khi đó, chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới từ Lào về Việt Nam tăng khá mạnh ở mức trung bình 37,0% một năm, chiếm tỷ trọng 97,2% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Lào.
2.2 Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu qua biên giới Việt - Lào
a) Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Cơ cấu nhóm mặt hàng xuất khẩu qua biên giới Việt – Lào giai đoạn 2020-2024 bao gồm: các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản, rau quả chiếm tỷ trọng khoảng 11,8%; các mặt hàng xơ, sợi dệt, giày da, may mặc và vật tư chiếm tỷ trọng khoảng 13,9%; các mặt hàng xi măng, sắt thép và sản phẩm từ sắt thép chiếm tỷ trọng khoảng 19,9%; các mặt hàng phân bón, chất dẻo nguyên liệu, thức ăn gia súc chiếm tỷ trọng khoảng 18,7%; các mặt hàng máy móc, phương tiện vận tải, thiết bị, phụ tùng chiếm tỷ trọng khoảng 22,3%; các mặt hàng gỗ, sản phẩm gỗ chiếm tỷ trọng khoảng 7,1%; ngoài ra, xăng dầu và các mặt hàng khác chiếm tỷ trọng khoảng 6,3%.
b) Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Cơ cấu nhóm mặt hàng nhập khẩu qua biên giới Việt – Lào giai đoạn 2020-2024 bao gồm: các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản, bao gồm mặt hàng cao su, ngô chiếm tỷ trọng khoảng 14,8%; các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tỷ trọng khoảng 21,9%; các mặt hàng máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chiếm tỷ trọng khoảng 17,5%; các mặt hàng khoáng sản, kim loại, quặng, than các loại chiếm tỷ trọng khoảng 23,6%; các mặt hàng phân bón các loại, nguyên phụ liệu thuốc lá chiếm tỷ trọng khoảng 16,4%; các mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chiếm tỷ trọng khoảng 5,8%.
2.3 Đánh giá chung
2.3. 1 Một số kết quả đạt được
Thứ nhất, đã tận dụng được một số cơ chế, chính sách trong Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào như thủ tục hành chính do cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cửa khẩu thực hiện đối với người, phương tiện, hàng hóa, vật phẩm xuất, nhập qua biên giới; quản lý các dịch vụ hỗ trợ thương mại tại cửa khẩu, bao gồm các dịch vụ kho, bãi, giao nhận, vận chuyển, gia công, đóng gói, bốc dỡ hàng hóa; dịch vụ thanh toán, thu đổi ngoại tệ; dịch vụ hỗ trợ thực hiện các thủ tục hành chính và các dịch vụ hỗ trợ khác theo quy định. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, như: cơ chế, chính sách về hàng hóa; về thương nhân; về cư dân biên giới; về khách du lịch; về lao động tại khu vực cửa khẩu; về vấn đề bảo vệ môi trường khu vực cửa khẩu.
Thứ hai, kim ngạch thương mại biên giới Việt - Lào tăng trưởng cao trong giai đoạn vừa qua. Kim ngạch thương mại biên giới tăng trưởng cao đã góp phần làm tăng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam với Lào. Đặc biệt, hàng hóa được xuất nhập khẩu qua biên giới giữa Việt Nam với Lào thâm nhập sâu vào trong thị trường nội địa của mỗi nước cũng như trung chuyển đến thị trường khu vực và thế giới. Kể từ khi ký Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào năm 2015, trong khoảng 10 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào tăng gần gấp 2 lần, đạt 2.174,0 triệu USD năm 2024 so với 1.102,4 triệu USD của năm 2015
Thứ ba, mặt hàng trao đổi qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào không ngừng được mở rộng, đa dạng và phong phú. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, mặt hàng ổn định cho sản xuất và tiêu dùng, những mặt hàng mới được xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi trong thương mại biên giới Việt - Lào. Ngoài những mặt hàng rau quả, trái cây tươi, cao su và các sản phẩm từ cao su, sắn lát, tinh bột sắn và các sản phẩm từ sắn, thóc, gạo, đường, và các mặt hàng nông, lâm, thủy sản khác, các mặt hàng điện thoại, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Hàng hóa trong hoạt động thương mại biên giới Việt - Lào không chỉ từ các vùng biên giới, các tỉnh biên giới mà còn hàng hóa của các tỉnh, thành khác của mỗi nước, cũng như hàng hóa từ các nước hoặc vùng lãnh thổ thứ ba.
Thứ tư, thương nhân hoạt động thương mại biên giới Việt - Lào phát triển nhanh về số lượng, khả năng và nguồn lực. Đã thu hút được sự tham gia của các thương nhân không chỉ vùng biên giới, tỉnh biên giới mà còn từ các địa phương khác của Việt Nam và Lào cũng như thương nhân từ nước hoặc vùng lãnh thổ khác trên thế giới. Bên cạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ các hộ gia đình kinh doanh biên giới, đã thu hút nhiều các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế của mỗi nước cũng như các doanh nghiệp đa quốc gia, xuyên quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp có khả năng và nguồn lực không chỉ tham gia hoạt động xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu mà còn đầu tư, hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ tại khu vực cửa khẩu biên giới Việt - Lào.
Thứ năm, thủ tục hành chính tại cửa khẩu biên giới Việt - Lào đã được các cơ quan quản lý nhà nước, các lực lượng chức năng chuyên ngành tại cửa khẩu cải cách mạnh mẽ, có nhiều tiến bộ, các thủ tục hành chính, đăng ký kinh doanh, thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh người và phương tiện được đơn giản hóa. Hoạt động của các lực lượng chức năng tại cửa khẩu luôn phối hợp thống nhất, đảm bảo sự đồng bộ, có trật tự, có nề nếp theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính.
2.3.2 Những vấn đề tồn tại cần giải quyết
Một là, chưa tận dụng tốt cơ chế ưu đãi đặc thù trong Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào đối với cây trồng, vật nuôi, hàng hóa được sản xuất bởi cư dân tại các huyện biên giới của Lào (được chứng nhận bởi cơ quan có thẩm quyền của Lào, bao gồm chứng nhận kiểm dịch y tế, động vật, thực vật) được miễn thuế nhập khẩu và các loại thuế khác khi nhập khẩu vào Việt Nam, miễn tất cả các loại giấy phép, miễn kiểm dịch y tế, động vật, thực vật, thủy sản, kiểm tra chất lượng và kiểm soát về an toàn thực phẩm, trừ trường hợp có thông báo chính thức từ cơ quan có thẩm quyền về sự đe dọa đối với từng mặt hàng cụ thể.
Hai là, chưa khai thác tối đa cơ chế đặc biệt trong Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào đối với danh mục cây trồng, vật nuôi, hàng nông sản chưa qua chế biến được sản xuất bởi cư dân và hộ gia đình tại các tỉnh biên giới của Lào theo dự án của nhà đầu tư Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật mỗi nước không thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng, không thuộc đối tượng bị hạn chế khối lượng (hạn ngạch) và giấy phép nhập khẩu (nếu có) khi nhập khẩu về Việt Nam.
Ba là, thương nhân tham gia hoạt động thương mại biên giới Việt - Lào chưa tận dựng được những cơ chế, chính sách ưu đãi cho phát triển. Thương nhân tham gia hoạt động thương mại biên giới Việt - Lào đa dạng và phong phú, tuy nhiên phần đông là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là chưa tận dựng được những cơ chế, chính sách ưu đãi cho phát triển. Mặc dù đóng vai trò là động lực quan trọng trong phát triển thương mại biên giới Việt - Lào, hầu hết các thương nhân có trình độ công nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh thấp; cơ cấu kinh doanh còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác; năng lực hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của các chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu.
Bốn là, công tác phối hợp của các cơ quan chức năng hai bên biên giới vẫn còn bất cập, chưa thực sự tương thích và kết nối với nhau trong khai thác có hiệu quả Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào. Các lực lượng chức năng tại cửa khẩu như Hải quan, Biên phòng, Kiểm dịch còn bị động và lúng túng trong việc thực hiện cơ chế, chính sách trong Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào. Ngoài ra, các địa phương biên giới còn lúng túng và bị động khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý hoạt động thương mại biên giới.
Năm là, hạ tầng kỹ thuật tại một số khu vực cửa khẩu biên giới Việt - Lào vẫn còn yếu kém, lạc hậu. Một số khu vực kho, bến bãi tập kết hàng chờ xuất khẩu, nhập khẩu; kho trung chuyển hàng hóa; khu vực làm thủ tục, kiểm tra, giám sát đối với phương tiện, hàng hóa xuất, nhập, khu vực dịch vụ, thương mại khác cũng như nơi làm việc của các cơ quan vận tải, ngân hàng, thu thế, phí, lệ phí tại một số cửa khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
- Kiến nghị giải pháp
3.1 Bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại biên giới Việt – Lào trong giai đoạn tới
Quan hệ chính trị - đối ngoại giữa Việt Nam với Lào, bao gồm mối quan hệ giữa các Đảng, các Chính phủ, các Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương cũng như các địa phương sẽ ngày càng được củng cố và tăng cường. Quan hệ chính trị - đối ngoại tiếp tục được củng cố sẽ tạo ra những cơ hội cho thực thi Hiệp định thương mại biên giới Việt – Lào làm cầu nối trung chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa hai nước, khu vực và thế giới. Trong bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, quan hệ Việt Nam – Lào sẽ tiếp tục vun đắp “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”, hợp tác kinh tế sẽ ngày càng phát triển thực chất, hiệu quả, xứng tầm với quan hệ chính trị; mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt - Lào sẽ luôn được ưu tiên, tạo cơ hội cho phát triển thương mại biên giới giữa Việt Nam và Lào và cho triển khai có hiệu quả Hiệp định thương mại biên giới Việt – Lào.
Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với Lào sẽ tiếp tục phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu, tạo ra nhiều cơ hội cho thương mại biên giới phát triển. Các nước đều có những chủ trương, chính sách thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại song phương, do vậy Hiệp định thương mại biên giới Việt – Lào ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Lào sẽ có những đột phá trong giai đoạn tới. Lào sẽ tiếp tục ưu tiên cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại Lào, đặc biệt là các lĩnh vực chiến lược như cơ sở hạ tầng, năng lượng, công nghệ cao, kết nối giao thông… Việt Nam sẽ có những cơ chế ưu đãi đặc biệt cho hàng hóa và dịch vụ.
Hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền giữa Việt Nam với Lào được quy hoạch rõ ràng tạo ra những cơ hội cho khai thác có hiệu quả Hiệp định thương mại biên giới Việt – Lào. Đối với quy hoạch cửa khẩu trên tuyến biên giới đất liền Việt - Lào, căn cứ Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Lào ký ngày 16 tháng 3 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1201/QĐ-TTg ngày 14/10/2023 phê duyệt Quy hoạch cửa khẩu trên tuyến biên giới đất liền Việt - Lào thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
3.2 Giải pháp tăng cường khai thác Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào
Trong giai đoạn tới, nhằm tăng cường khai thác có hiệu quả hơn nữa Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào cần nghiên cứu triển khai một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần triển khai có hiệu quả quy định của Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào đối với cây trồng, vật nuôi, hàng hóa được sản xuất bởi cư dân tại các huyện biên giới của Lào (được chứng nhận bởi cơ quan có thẩm quyền của Lào, bao gồm chứng nhận kiểm dịch y tế, động vật, thực vật) được miễn thuế nhập khẩu và các loại thuế khác khi nhập khẩu vào Việt Nam, miễn tất cả các loại giấy phép, miễn kiểm dịch y tế, động vật, thực vật, thủy sản, kiểm tra chất lượng và kiểm soát về an toàn thực phẩm, trừ trường hợp có thông báo chính thức từ cơ quan có thẩm quyền về sự đe dọa đối với từng mặt hàng cụ thể. Qua đó, không chỉ thúc đẩy hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới, mà còn khuyến khích các doanh nghiêp hai nước đầu tư, sản xuất kinh doanh, thu mua cây trồng, vật nuôi, hàng hóa được sản xuất bởi cư dân tại các huyện biên giới của Lào.
Thứ hai, cần triển khai có hiệu quả quy định của Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào về thương nhân muốn thực hiện hoạt động thương mại biên giới và được hưởng chính sách ưu đãi phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền cấp tỉnh của mỗi nước và được cơ quan này xem xét, cho phép hoạt động thương mại biên giới theo quy định của pháp luật mỗi nước”. Qua đó, khuyến khích phát triển thương nhân biên giới Việt - Lào, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp thương mại biên giới hai nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư doanh nghiệp thương mại biên giới Việt - Lào và bảo đảm hoạt động của doanh nghiệp thương mại biên giới theo cơ chế thị trường. Cần có những thỏa thuận giữa Việt Nam với Lào về cơ chế, chính sách đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật mỗi nước, pháp luật và thông lệ quốc tế.
Thứ ba, khai thác Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào về các cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp thương mại biên giới; thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để doanh nghiệp thương mại biên giới đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh biên giới mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thương mại biên giới Việt - Lào. Cần xây dựng và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thương mại biên giới Việt - Lào, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; phát triển đội ngũ doanh nghiệp thương mại biên giới Việt - Lào đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, nông nghiệp.
Thứ tư, tăng cường khai thác Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào về quy định danh mục cây trồng, vật nuôi, hàng nông sản chưa qua chế biến được sản xuất bởi cư dân và hộ gia đình tại các tỉnh biên giới của Lào theo dự án của nhà đầu tư Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật mỗi nước không thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng, không thuộc đối tượng bị hạn chế khối lượng (hạn ngạch) và giấy phép nhập khẩu (nếu có) khi nhập khẩu về Việt Nam. Qua đó, khuyến khích phát triển chuỗi liên kết sản xuất hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào, đặc biệt cần gắn với thực hiện chuyển đổi số, nhất là trong các ngành chế biến, chế tạo nhằm tạo sự bứt phá và động lực mới cho thương mại biên giới giữa hai nước. Nghiên cứu cơ chế hợp tác giữa Việt Nam với Lào về tăng cường công tác điều phối phát triển chuỗi liên kết sản xuất hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới nhằm nâng cao hiệu quả liên kết, góp phần hình thành các cụm liên kết ngành, các chuỗi giá trị qua biên giới nhằm tận dụng lợi thế về thương mại biên giới Việt - Lào.
Thứ năm, tăng cường khai thác Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào về quy định Việt Nam và Lào ưu đãi thuế suất thuế nhập khẩu 0% cho các loại hàng hóa có xuất xứ từ mỗi nước. Trên cơ sở đó, phát triển chuỗi liên kết sản xuất hàng hóa qua biên giới vào sâu trong thị trường nội địa mỗi nước qua các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu qua các cửa khẩu biên giới. Phát triển chuỗi liên kết sản xuất hàng hóa qua biên giới Việt - Lào vào sâu trong thị trường nội địa của mỗi nước cần thúc đẩy hợp tác nghiên cứu và ứng dụng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo quá trình quản trị sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, trong đó chú trọng đến các công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp. Bên cạnh đó, phát triển chuỗi liên kết sản xuất hàng hóa qua biên giới Việt - Lào vào sâu trong thị trường nội địa của mỗi nước cần khuyến khích hợp tác, nghiên cứu về vật liệu mới, sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm có hàm lượng đổi mới sáng tạo cao.
Thứ sáu, tăng cường khai thác Hiệp định Thương mại biên giới Việt - Lào đối với các cơ chế đặc biệt về xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch qua biên giới. Trong đó, Việt Nam và Lào cần tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức liên quan của hai nước tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại, thúc đẩy thương mại hàng hóa qua biên giới giữa hai nước bao gồm nghiên cứu, khảo sát thị trường, hội chợ, triển lãm thương mại, thành lập trung tâm thương mại, quảng cáo, tư vấn, môi giới, đại lý và các dịch vụ nâng cao khả năng tiếp cận và thâm nhập thị trường của mỗi nước. Cần khuyến khích các nhà đầu tư của Việt Nam và Lào cũng như các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thương mại biên giới. Cần thúc đẩy phát triển du lịch gắn kết với thương mại biên giới; đẩy mạnh hoạt động du lịch kết hợp với triển lãm thương mại, mua sắm qua biên giới; mở rộng du lịch văn hóa qua biên giới, du lịch kết nối các tỉnh Việt Nam và Lào; khuyến khích xây dựng và phát triển các tuyến du lịch vào sâu trong nội địa của hai nước và kết nối với các nước trong khu vực.
Nói tóm lại, với những cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt, đặc thù của Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào, hoạt động thương mại biên giới giữa hai nước đã có những kết quả phát triển đáng ghi nhận về nhiều khía cạnh. Trên cơ sở triển khai Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào, kim ngạch thương mại biên giới Việt - Lào tăng trưởng cao; mặt hàng trao đổi qua các cửa khẩu biên giới Việt - Lào không ngừng được mở rộng, đa dạng và phong phú; thương nhân hoạt động thương mại biên giới Việt - Lào phát triển nhanh về số lượng, khả năng và nguồn lực. Trong bối cảnh quan hệ chính trị - đối ngoại sẽ ngày càng được củng cố và tăng cường, quan hệ kinh tế - thương mại sẽ tiếp tục phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu, cần tăng cường khai thác Hiệp định Thương mại biên giới Việt – Lào trong thời gian tới nhằm đưa hoạt động thương mại biên giới Việt – Lào thành cầu nối trung chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa hai nước, giữa các nước trong khu vực và thế giới.
Abstract:
The land border between Vietnam and Laos runs through 10 provinces of Vietnam and 10 provinces of Laos. By the end of 2024, 15 pairs of international and bilateral border gates have been opened along the entire Vietnam-Laos land border for the movement of people, means of transport, goods and cross-border trade activities. Vietnam and Laos signed a Border Trade Agreement on June 27, 2015 with special preferential mechanisms and policies between the two countries. As a result, border trade activities between the two countries have achieved remarkable development results in many aspects, in terms of turnover, goods and traders. The two countries have taken advantage of a number of mechanisms and policies in the Vietnam - Laos Border Trade Agreement; Vietnam - Laos border trade turnover has grown strongly; in the past 10 years, the total import and export turnover of goods through Vietnam - Laos border gates has nearly doubled; goods exchanged through Vietnam - Laos border gates have been constantly expanded, diversified and enriched; traders operating in Vietnam - Laos border trade have grown rapidly in terms of quantity, capacity and resources. However, both Vietnam and Laos have not yet made good use of and fully exploited the special preferential mechanisms, especially in the Vietnam - Laos Border Trade Agreement. In the context of increasingly consolidated and enhanced political and foreign relations, economic and trade relations will continue to develop in both breadth and depth, it is necessary to enhance the exploitation of the Vietnam - Laos Border Trade Agreement for the socio-economic development goals of each country.
Keywords: border trade, border gates, import and export
Tài liệu tham khảo
- Andreas Eberhard-Ruiz af1 (2024). The Impact of Armed Conflict Shocks on Local Cross-Border Trade: Evidence from the Border between Uganda and the Democratic Republic of Congo. Economic Development and Cultural Change. Volume 72, Issue 3, 1 April 2024, Pages 1151-1187.
- D. Eleanor Westney, Rebecca Piekkari, Kaisa Koskinen, Susanne Tietze (2022). Crossing borders and boundaries: Translation ecosystems in international business. International Business Review. Volume 31, Issue 5, October 2022, 102030.
- Hang Dao T, George A.C. Beattie, Gillian W. Watson, Sengphet Phanthavong, Mis Lerdxai Inkhamphay, Paul Holford, Lester Burgess (2023). Species of Diaspididae (Hemiptera: Coccomorpha) on citrus in southern Lao PDR, new records for Việt Nam, and revised records for Indochina. Journal of Asia-Pacific Entomology. Volume 26, Issue 4, December 2023, 102142.
- Inocent Moyo (2023). The vacuity of informal cross-border trade facilitation strategies in the SADC region. Political Geography. Volume 101, March 2023, 102816.
- Sakkarin Nonthapot, Tho Nguyen Dinh, Yen Truong Thuan (2019). The Process of Land Passenger Transportation by International Bus Crossing Lao and Vietnamese Border Gates. The Open Transportation Journal. Volume 13, 2019, Pages 1-10.
- Suparna Chakraborty, Miao Grace Wang, M. C. Sunny Wong (2024). Coupling and decoupling of ancestral linkages and current cross-border economic activities: Genetics and policy. Economics & Human Biology. Volume 54, August 2024, 101410.